Lịch sử Việt Nam
Minh Mạng - Nguyễn Phúc Đảm
Minh Mạng - Nguyễn Phúc Đảm

Minh Mạng tên huý là Nguyễn Phúc Đảm, sinh ngày 23 tháng 4 nǎm Tân Hợi (25/5/1791), là con thứ 4 của Gia Long. Tháng giêng nǎm Canh Thìn (1820), thái tử Đảm lên ngôi vua, niên hiệu là Minh Mạng.

 

Minh Mạng có tư chất thông minh, hiếu học, nǎng động và quyết đoán. Minh Mạng đặt ra lệ: các quan ở Thành, Dinh, Trấn - vǎn từ Hiệp trấn, Cai bạ, Ký lục, Tham hiệp; võ từ Thống quản cơ đến Phó vệ uý... ai được thǎng điện, bổ nhiệm... đều phải đến kinh đô gặp vua, để vua hỏi han công việc, kiểm tra nǎng lực và khuyên bảo.

Là người tinh thâm nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến học hành, khoa cử, tuyển chọn nhân tài. Nǎm 1821 cho dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế Tửu và Tư Nghiệp, mở lại thi Hội và thi Đình, trước 6 nǎm một khoa thi, nay rút xuống 3 nǎm.

Minh Mạng cũng rất quan tâm đến võ bị, nhất là thuỷ quân, nên đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của Châu Âu và ước vọng làm sao cho người Việt ta đóng được tàu kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương.

Minh mạng đã cho hoàn chỉnh lại hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai hoang ven biển Bắc Bộ lập thêm hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải.

Về đối ngoại, Minh Mạng đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh, nhưng lại lạnh nhạt và nghi kỵ các nước phương Tây, do vậy đã kìm hãm quan hệ thông thương của đất nước.

Để bảo đảm đế nghiệp lâu dài cho mình và các con cháu, Minh Mạng đã thảo ra 11 bài thơ, trong đó một bài gọi là "Đế hệ thi" và 10 bài gọi là "Phiên hệ thi", mỗi bài 4 câu, 20 từ, từ có nghĩa tốt, uyên bác dùng làm tiền từ cho 20 đời nối tiếp nhau kể từ Minh Mạng:

Bài thơ: "Đế hệ thi" có 4 câu, 20 từ:

Miên, Hường, Ưng, Bửu ,Vĩnh
Bảo, Quý, Định, Long, Trường
Hiền, Nǎng, Kham, Kế, Thuật
Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương.

Theo phép đặt tên đôi này, tất cả con trai của Minh Mạng đều phải có tiền từ "Miên" ghép với tên do gia đình đặt, tiếp đến con của thế hệ "Miên" là "Hường"... Cứ thế liên tiếp 20 từ là 20 thế hệ, Minh Mạng hy vọng đế nghiệp sẽ truyền lại cho 20 đời con cháu khoảng 500 nǎm. Nhưng triều Nguyễn chỉ thực hiện được đến từ thứ 5 "Vĩnh Thuỵ" (tức Bảo Đại) thì bị Cách mạng tháng 8 nǎm 1945 lật đổ.

Minh Mạng có rất nhiều vợ nên đã có 78 hoàng tử và 64 công chúa, tổng cộng 142 người con.

Tháng 12 nǎm 1840, Minh Mạng ốm nặng rồi mất vào ngày 20/1/1841, trị vì được 20 nǎm, thọ 51 tuổi.

(Nguồn: Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam)



Tin liên quan


Nguyễn Phúc Ánh, sinh nǎm Nhâm Ngọ (1762), con thứ ba của  Nguyễn Phúc Luân . Mẹ Nguyễn Phúc Ánh là  Nguyễn Thị Hoàn...
Dục Đức (1883, làm vua 3 ngày) Tự Đức có hàng trǎm vợ nhưng không có con, phải nuôi ba người con các anh mình làm con...
Hiệp Hoà (6/1883-11/1883, làm vua được 6 tháng)  tên huý là Hồng Dật, con thứ 29 và là con út của Thiệu Trị, sinh tháng...
hiệu Trị tên huý là Phúc Tuyền sau đổi là Miên Tông, là con trưởng của Minh Mạng và mẹ là Thuận Đức Thần Phi Hổ Thị Hoa, sinh 11...
Kiến Phúc (1883-1884) Ưng Đǎng là con nuôi thứ 3 của Tự Đức, sinh ngày 2 tháng Giêng nǎm 1870. Vì Tự Đức không có con,...
Tự Đức tên huý là Hồng Nhiệm, sinh ngày 25 tháng 8 nǎm Kỷ Sửu (1829) là con thứ hai của Thiệu Trị và bà  Phạm Thị Hằng  - con...
Hàm Nghi (1884-1885) Sau khi Kiến Phúc bị giết, ngày 1/8/1884 Ưng Lịch mới 13 tuổi được đưa lên ngôi vua, niên hiệu là Hàm Nghi....
Đồng Khánh (1885-1888) Sau khi vua Hàm Nghi bỏ kinh đô Huế chạy ra Quảng Trị, xuống Chiếu Cần Vương chống Pháp, thực dân Pháp bàn với...
Thành Thái (1889-1907) Đống Khánh mất, các con trai còn quá nhỏ. Triều đình Huế vâng chỉ của Nghi Thiên Chương Hoàng hậu...
Duy Tân (1907-1916) Phế truất Thành Thái, thực dân Pháp đưa hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi lên làm vua để dễ bề sai khiến. Nhưng...